21/11/2004 | lượt xem: 5 Tiềm năng phát triển du lịch Hưng Yên Tiềm năng du lịch Sương sớm trên hồ Bán NguyệtHưng Yên là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, có vị trí và hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hưng Yên là quê hương của đồng lúa vườn cây, hồ sen và những đặc sản nổi tiếng như cam đường canh, nhãn lồng... Hưng Yên nơi phát tích của những danh nhân như đại danh y Hải Thượng Lãn Ông, tướng quân Phạm Ngũ Lão, là quê hương của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, và cũng là quê hương của thân mẫu Bác Hồ. Một cảnh trong vở chèo"Quan Âm Thị Kính"Hưng Yên cũng là kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc của đồng bằng châu thổ sông Hồng với những làn điệu chèo, hát ả đào, hát trống quân mượt mà đằm thắm gắn liền với nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng như: Phố Hiến, khu tích Đa Hòa Dạ Trạch gắn liền với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Theo thống kê, toàn tỉnh có hơn 900 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 132 di tích được xếp hạng quốc gia cùng hàng ngàn tài liệu và hiện vật cổ có giá trị. Đặc biệt là quần thể di tích Phố Hiến, Hàm Tử, Bãi Sậy, đó là nguồn tài nguyên du lịch văn hóa có giá trị cho phát triển du lịch. Bảng liệt kê mật dộ di tích trên địa bàn tỉnh Tt Địa bàn Diện tích Số di tích Mật độ Số di tích được xếp hạng Mật độ Tổng số 923 980 1.062 132 0.143 1 Thị xã Hưng Yên 22.15 59 2.664 12 0.542 2 Huyện Văn Lâm 79.1 52 0.657 12 0.152 3 Huyện Mỹ Hào 71.79 74 1.031 09 0.125 4 Huyện Yên Mỹ 74.42 148 1.998 15 0.202 5 Huyện Khoái Châu 90.99 74 0.813 20 0.219 6 Huyện Văn Giang 130.08 52 0.399 12 0.092 7 Huyện Ân Thi 128.21 140 1.092 14 0.109 8 Huyện Kim Động 118.62 158 1.332 15 0.126 9 Huyện Phù Cừ 93.82 94 1.222 06 0.064 10 Huyện Tiên Lữ 115.09 148 1.277 17 0.148 Qua đó ta thấy mật độ các di tích lớn tập trung hình thành 3 cụm là: Thị xã Hưng Yên - Kim Động; khu vực Phố Nối - Yên Mỹ và khu vực Đa Hòa, Dạ Trạch huyện Khoái Châu. Cụm di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến - thị xã Hưng Yên Phố HiếnBao gồm các di tích ở thị xã Hưng Yên và một phần các huyện Tiên Lữ, Kim Động. Cụm di tích này nằm bên bờ sông Hồng, nơi đây là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Hưng Yên xưa và nay. Với cảnh quan đẹp, sự đa dạng của các di tích, lịch sử văn hóa Phố Hiến được hình thành bởi sự phong phú về phong tục tập quán của người Hoa, người Nhật và người Châu Âu. Phố Hiến xưa đã cổ nay lại càng nổi tiếng hơn khi nhắc đến Văn Miếu, chùa Phố, chùa Chuông, đền Trần, đền Mẫu và đền Mây. Tiêu biểu của kiến trúc đình chùa trong cụm di tích Phố Hiến có thể nhắc đến các chùa: Chùa Hiến (thời Trần): Tại chùa có cây nhãn tổ, truyền rằng ngày xưa quả của cây nhãn này được hái để dâng Đức Phật, cúng Thần hoàng và để quan lại mang tiến vua chúa, nó cũng được xem như là biểu tượng của đất Hưng Yên. Toàn cảnh chùa ChuôngChùa Chuông: Nằm tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thị xã Hưng Yên. Di vật đặc biệt của chùa phải kể đến tấm bia đá cao 165cm, rộng 110cm dựng vào năm Tân Mão, được trang trí hình rồng chầu mặt trời. Đền Mẫu: Được coi là một danh lam thắng cảnh đẹp nhất của Phố Hiến, trước đền là hồ Bán Nguyệt cây xanh râm mát, một bên là phố Nguyệt Hồ, một bên là đê Đại Hà không gian thoáng đãng, nó nổi tiếng bởi có cây sanh, si, đa cổ thụ có tuổi thọ ngót 800 năm ở phía trước cửa đền, nơi đây hàng năm thu hút hàng vạn khách tới thăm. Văn Miếu Xích ĐằngVăn Miếu: Là Văn Miếu hàng tỉnh và còn gọi là Văn Miếu Xích Đằng, toạ trên một khu đất cao, rộng gần 4000m2 thuộc thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn. Hiện vật quý nhất của Văn Miếu là 9 tấm bia có ghi danh các nhà khoa bảng. Văn Miếu là di tích minh chứng cho truyền thồng hiếu học của người Hưng Yên. Trải qua những thăng trầm, biến đổi, Phố Hiến xưa chỉ còn lại trong lưu truyền và một số những di tích. Nếu Phố Hiến được đầu tư, tôn tạo thì nơi đây sẽ trở thành khu du lịch văn hóa lịch sử có sức cuốn hút mạnh mẽ trong và ngoài nước theo các tour du lịch cả bằng đường bộ, đường thủy để tham quan, dự lễ hội và nghiên cứu... Cụm di tích Đa Hòa - Dạ Trạch, Hàm Tử - Bãi Sậy Phần lớn các điểm du lịch khu vực này nằm cạnh sông Hồng, có cảnh quan đẹp, khí hậu trong lành.. Gắn liền với cụm di tích này là truyền thuyết và lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung đã được nhà nước xếp hạng, là một trong những di tích lịch sử văn hóa quan trọng quốc gia. Từ đây khách du lịch có thể thăm cảnh quan sinh thái đồng quê - bãi sông Hồng, làng vườn, làng nghề gốm sứ Xuân Quan. Cụm di tích Hải Thượng Lãn Ông - Phố Nối Điển hình của cụm này là khu di tích đại danh y Lê Hữu Trác và nhiều chùa đình có kiến trúc độc đáo như chùa Lãng (chùa Lạng) thôn Như Lãng, Minh Hải, Văn Lâm; chùa Thái Lạc ở thôn Thái Lạc, Lạc Hồng, huyện Văn Lâm; đền thờ danh tướng Lý Thường Kiệt thuộc huyện Yên Mỹ; đền Ủng huyện Ân Thi; đình Đa Ngưu huyện Văn Giang và khu tưởng niệm cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Đây là cụm di tích nằm kề cận với Thủ đô Hà Nội, trên đường quốc lộ 5, nối trung tâm du lịch Hà Nội - Phố Nối - Hải Phòng - Quảng Ninh. Ngoài các sản phẩm du lịch chính của cụm này, tham quan các đình, chùa khách còn được tham quan làng nghề đúc đồng, chạm bạc, cây dược liệu, tương Bần... Các lễ hội truyền thống Lễ hội đền Hóa Dạ TrạchLà một tỉnh đồng bằng gắn liền với nền văn minh lúa nước, Hưng Yên có nhiều lễ hội phản ảnh khá rõ nét con người, truyền thống, phong tục mà thông qua đó bày tỏ lời cảm ơn của mình đối với trời đất, thần nước và cầu mong có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, cảm ơn những người có công đức, tưởng nhớ tới các vị anh hùng. Nét độc đáo của nhiều lễ hội truyền thống ở Hưng Yên là các lễ rước thường gắn liền với sông Hồng như lễ hội Đền Mẫu, Đền Dạ Trạch, Đền Đa Hòa... Các tài nguyên du lịch khác Làng nghề thủ công truyền thống: Làng nghề Đại Đồng - làng nghề đúc đồng thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm; nghề chạm bạc Phù Ủng thuộc làng Phù Ủng, huyện Ân Thi; các làng nghề mây tre đan huyện Tiên Lữ; nghề dệt thảm thêu ren huyện Phù Cừ, Kim Động; làng hương xạ ở Cao Thôn xã Bảo Khê; Nội Lễ - Nội Thuyền ở xã An Viên, huyện Tiên Lữ; gốm sứ Xuân Quan; may da công nghiệp ở Ngọc Loan, Cự Dũng, Tứ Trung, Văn Lâm. Đặc sản và văn hóa ẩm thực: Thiên nhiên, đất đai sông nước đã ban tặng cho người Hưng Yên những sản vật quý giá, phong phú mang đậm bản sắc của địa phương, đó là các loại hoa quả và các món ăn độc đáo như: Nhãn lồngNhãn lồng Phố Hiến: Nhãn là quà tặng trời cho đất Phố Hiến; Hưng Yên nổi danh khắp đất nước cũng nhờ có nhãn. Kỳ lạ thay cũng là đất bãi sông Hồng mà chỉ có nhãn Phố Hiến mới được coi là vua của loài nhãn, nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng mô tả ''mỗi lần bỏ vào miệng thì tận trong răng lưỡi đã nảy ra vị thơm tựa như nước thánh trời cho...'' những yếu tố vi lượng nào đã làm cho nhãn Phố Hiến có hương vị đặc biệt khác hẳn cây nhãn ở nơi khác? Nhãn được trồng nhiều ở ven đê từ Đằng Châu, Xích Đằng đến cửa sông Luộc. Được mùa nhãn cả tỉnh ước thu được từ 150 - 200 tỷ đồng, hiện nay vùng thị xã Hưng Yên và vùng phụ cận có nhiều gia đình lập trang trại trồng toàn nhãn ghép và nhãn chiết giống quả, dưới vườn nhãn người ta nuôi ong mật, đây cũng là loại thuốc quý. Thiên nhiên đã ưu đãi nơi dây một vùng đất bạt ngàn nhãn, ong; khách về Hưng Yên thường đến thăm cây nhãn tiến (thường quen gọi nhãn Tổ) có mấy trăm năm tuổi ở trước cửa Chùa Hiến. Sen: Nếu nhãn được tôn vinh là vương giả chi quả thì sen cũng là vương hậu chi hoa. Sen được trồng dọc theo ven đê sông Hồng từ Văn Giang đến cửa sông Luộc xuống tận La Tiến, Phù Cừ. Sen không chỉ là loại hoa đẹp mà các bộ phận của cây sen đều là thuốc chữa bệnh: Hạt sen chữa thần kinh suy nhược, mất ngủ; tâm sen có vị đắng chữa tim hồi hộp, an thần; gương sen phơi khô sắc uống có tác dụng cầm máu trong đại tiểu tiện băng huyết..., hạt gạo trong hoa sen dùng ướp chè; hạt sen dùng làm mứt sen. Trong các dịp Tết Nguyên đán, Tết Trung thu những cô gái Hưng Yên thường làm ít mứt sen bày bán trong cửa hàng với ngụ ý kén chồng. Bún thang: Những người Hưng Yên xa xứ mỗi lần về thăm quê hương thường đến gốc cây sanh ăn một bát bún thang của nhà hàng Thế Kỷ. Cửa hàng không có biển hiệu, khách ăn quen gọi cửa hàng bằng tên của bà. Người dân Hưng Yên gọi bát bún thang của bà là một tác phẩm nghệ thuật đầy mầu sắc: Cái trắng của bún Vân Tiêu làm nền, cái vàng của nhân lươn, nhân gà, nó được tôn nên bởi một số gia vị rau răm, mắm tôm và đặc biệt là nước dùng. Bún thang làm không khó, nhưng cũng không phải dễ, nguyên liệu đều là sản phẩm của Hưng Yên, chế biến đủ độ chín, liều lượng không non tay cũng không già lửa. Lươn thui rồi mới mổ để không mất máu. Bún thang là món ăn nhiều đạm, bổ dưỡng, nó là nỗi nhớ của Hưng Yên. Tương BầnTương Bần: ''Tương cà gia bản'', tương là món ăn mang ý nghĩa cộng đồng. Tương Bần nổi tiếng bởi nó được chế biến từ gạo nếp cái, đỗ tương ta hạt nhỏ, đặc biệt nước để làm tương Bần phải là nước giếng đất. Làng Bần có một cái giếng duy nhất dùng để lấy nước làm tương, không được dùng vào việc tắm, rửa khác. Làm tương là cả một nghệ thuật, từ việc rang đỗ thì phải rang với cát, đỗ chín vàng đều, ủ mốc phải dùng lá khoai, lá sen, khi mốc lên hoa hòe, cầm lắm mốc lên tay phải nhẹ xốp, chum đựng tương được cọ rửa sạch sẽ và ngâm nước vài lần, khi ngả tương phải chọn ngày nắng, sau đó cứ sáng ra người ta lấy gậy (loại gậy làm chuyên để khuấy tương) khuấy đều từ trên xuống vài lần rồi đậy lại bằng chậu sành, tránh nắng chứ không tránh nóng, tương để nâu càng ngấu, càng ngon. Ếch om Phượng Tường: ''Đi thì nhớ vợ cùng con, về nhà lại nhớ ếch om Phượng Tường''. Làng Phượng Tường ở huyện Tiên Lữ. Câu ca dao đó có từ lâu đời, chứng tỏ là món ăn tuy dân dã nhưng nó mang đậm tính quê hương và đã được nâng lên tới mức nghệ thuật trong khoa ẩm thực, và nó được chế biến nhiều món khác nhau: Ếch mọc: Trước tiên phải lột sạch da, phải khéo từ miệng xuống chân còn nguyên vẹn không để da bị thủng rách, thịt ếch đem băm nhỏ lẫn với vỏ quýt khô, mọc nhĩ, nấm hương, thịt ba chỉ, trứng gà và một số gia vị tiêu, ớt, bột ngọt rồi cho vào cối giã mịn, sau đó nhồi lại vào da thành hình con ếch đặt lên đĩa để ngồi như ếch còn sống. Khi nhồi thì phải nhồi non như ếch đói, cho vào nồi hấp để chín nở ra là vừa. Lúc sắp bắc ra lấy trứng gà hoặc trứng vịt đánh nhuyễn dội lên mình ếch cho chảy xuống thành hình hoa mướp. Khi đã ăn một lần thưởng thức tưởng không thể quên hương vị của thứ đặc sản này. Ếch om: Mổ bụng lấy hết ruột gan, chỉ bóc lấy lại mỡ áo tơi, đặt ếch lên thớt dùng gọng dao dần thật kỹ cho nhuyễn xương, nhưng khi cầm lên vẫn phải còn nguyên con ếch, sau đó ướp với gia vị gồm: mẻ, vỏ quýt khô, mộc nhĩ, hạt tiêu, mắm tép, ngâm nước mỡ khoảng nửa giờ cho ngấm, đoạn lấy lạt bó lại cho vào nồi nấu với măng, thịt ba chỉ, khi đun nhớ nhỏ lửa cho sôi kỹ bắc xuống om cạnh bếp sao cho khi ếch chín nước chỉ còn vừa một bát và có mầu vàng đậm, ếch phải nhừ, món này ăn với rau diếp, xà lách, ăn rồi nhớ mãi không thể nào quên. Bánh dày làng Gầu: Từ bao đời nay bánh dày làng Gầu (xã Cửu Cao, huyện Văn Giang) đã nổi tiếng như rượu Trương Xá, tương Bần. Bánh dày được làm từ gạo nếp cái hoa vàng, được vo kỹ và ngâm nước sạch rồi đồ chín đem giã cho thật mịn, nhân bánh được làm bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, thổi chín đánh nhuyễn nắm thành nắm nhỏ, nếu làm bánh mặn thì làm nhân thịt nạc, bánh ngọt thì trộn đỗ xanh với đường. Cái đặc sắc của bánh dày làng Gầu là gạo nếp phải được gieo trồng trên đất làng Gầu, ngâm nước giếng làng Gầu và được chính bàn tay khéo léo của các cô gái làng Gầu nặn mới thành tấm bánh xinh xắn, thơm ngon. Bánh dày làng Gầu được khách xa gần đến đặt mua với số lượng lớn để phục vụ cho hội nghị, tiệc cưới... Tết đến xuân về, bánh dày được bày trang trọng trên bàn thờ để cúng ông bà tổ tiên, đây cũng là nét đẹp văn hóa của quê hương. Chả gà Tiểu Quan: Ở thôn Tiểu Quan, xã Phùng Hưng, huyện Khoái Châu có món chả gà nổi tiếng một vùng. Làm chả gà rất công phu, lấy thịt nạc, bỏ hết gân, xương rồi chặt nhỏ cho vào cối giã, khi gần được trộn với lòng đỏ trứng gà, nước mắm ngon, hạt tiêu, gừng, mỡ lợn thái hạt lựu rồi giã tiếp, giã xong lấy mo cau xúc và phết thịt lên phên tre để nướng, việc phết thịt cũng không phải dễ dàng, nếu mỏng quá thịt cháy và chảy sệ xuống lò, nếu dày quá thịt không chín đều, nướng chả phải bằng than hoa, nếu là than nhãn thì càng tốt, đặc biệt nếu có quả thông khô cho vào thì càng đượm, càng thơm. Ăn chả gà đúng hơn là thưởng thức một món ăn độc đáo, không ăn bỗ bã như những thứ khác. Vào dịp Tết trời se lạnh bạn hữu quây quần nâng chén rượu Trương Xá với chả gà, chiều xuân vào tối lúc nào không hay.