Đền Phạm Công Trứ và lễ hội

Đền Phạm Công Trứ thờ nhà quân sự, nhà chính trị đại tài hai triều đại Lê-Trịnh.

Phạm Công Trứ, người làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông sinh ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Hợi (1599) trong một gia đình nho học, cha là Phạm Cai, mẹ là Nguyễn Thị Liên. Ngay từ nhỏ ông tỏ ra rất ham học, phong độ giản dị, tính tình cương trực và nhân hậu. Được sự chăm sóc, dạy dỗ chu đáo của cha mẹ, lại được quan Huấn đạo Nguyễn Hiền (người ở xã An Tháp, cùng huyện) giúp đỡ, nên Phạm Công Trứ đã sớm nổi tiếng giỏi thơ, văn. Lớn lên, được vào học ở trường huyện Đường Hào (ông có học cả võ bị) và được xếp vào bậc "Nhiêu học" (tiên tiến xuất sắc bây giờ).

Năm 29 tuổi, Phạm Công Trứ đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, xuất thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời vua Lê Thần Tông (1619- 1643), được giao giữ chức Thái thượng Tự khanh ở Hàn Lâm viện. Cả sự nghiệp và cuộc đời của ông gắn liền với việc xây dựng và phò tá triều Lê-Trịnh thế kỷ XVII.

Năm Tân Mùi (1631), ông được giao giữ chức Hiến sát sứ trấn Thanh Hóa. Năm Kỷ Mão (1639) ông giữ chức Phủ Doãn phủ Phụng Thiên (thủ đô Hà Nội ngày nay), rồi làm Tham chính Tự khanh, được phép tham gia bàn luận việc Nội phủ. Năm Dương Hòa thứ 8 (1642) ông được thăng lên Tán lý đạo Sơn Nam, coi giữ việc binh. Trong hai năm Quý Mùi (1643) và Giáp Thân (1644) ông được lệnh tham gia phối hợp với Trịnh Tạc (1657-1682) đem quân đánh dẹp quân Nguyễn Phúc Lan ở phía Nam và quân Mạc ở phía Bắc. Do có công lớn, năm Ất Dậu (1645), Phạm Công Trứ được giao chức Phó Đô ngự sử, gia phong tước Khánh Yến Bá. Ông đã cùng Nguyễn Duy Thì dẹp được cuộc nổi loạn của Trịnh Sâm, được triều đình trọng thưởng và thăng chức Ngự sử đài chính chưởng.

Phạm Công Trứ còn đề ra nhiều chính sách cải cách quản lý nhà nước và ông là một nhà chính trị xuất sắc. Năm Vĩnh Thọ thứ ba (1660) ông đã dâng sớ xin kiện ước văn-võ, thưởng phạt nghiêm minh... khi giữ chức Tham tụng, ông đã nêu rõ phép "khảo khóa" (cất nhắc quan lại, ban điều lệ giáo hóa, khen thưởng phân minh, xét lại sổ đinh điền, định lại ngạch thuế...). Những việc sắp đặt của ông được chúa Trịnh chấp nhận để ổn định trị an xã tắc. Người đương thời khen ông là vị quan đa tài, liêm khiết. Năm Tân Sửu (1661) vâng lệnh triều đình, ông đem đại quân đi đánh dẹp lực lượng cát cứ Nguyễn Phúc Tần nổi dậy ở vùng Thuận Hóa. Thắng trận trở về ông được phong hàm Thiếu Bảo, tước Quận công. Để giáo dục kẻ sỹ, mở mang Nho học, tuyển chọn nhân tài cho đất nước, năm Nhâm Dần (1662) triều đình cử ông quản lý Văn miếu Quốc Tử Giám và làm tham tụng phủ Chúa Trịnh. Thời gian này, ông còn cho xây dựng bia Tiến sĩ tại huyện Đường Hào (quê hương ông) để khích lệ tinh thần học tập của nhân dân địa phương.

Cảm công lao to lớn của ông, vua Lê Huyền Tông (1663- 1671) đã tấn phong "Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Lễ bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu Bảo Yến Quận công, Thượng trụ quốc thượng, trật Phạm Công Trứ khả vi Đặc tiến Kim tử Lại bộ Thượng thư".

Năm Cảnh Trị thứ ba (1665) đời vua Lê Huyền Tông, Phạm Công Trứ được Tây Vương Trịnh Tạc giao cho việc khảo đính (phụ trách sửa  chữa và xem xét) lại bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư. Ông đã cùng với Hồ Sỹ Dương, Nguyễn Quốc Khôi, Đặng Công Chất, Đào Công Chính, Vũ Duy Đoán... khảo, đính toàn bộ bộ sách này, chép từ họ Hồng Bàng đến Ngô sứ quân (thế kỷ X) làm bộ "Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư"; từ thời Đinh Tiên Hoàng đến Thái tổ Cao Hoàng đế (Lê triều) làm bộ "Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư", theo trước tác của sử gia Ngô Sỹ Liên. Đây là một đóng góp rất lớn cho quốc sử nước nhà. Cũng trong thời gian này, ông đã biên soạn sách "Bốn mươi bảy điều giáo hóa" bổ sung cho Hình luật, xây dựng đạo đức góp phần giữ vững kỷ cương phép nước.

Vào năm Đinh Mùi (1667) và Kỷ Dậu (1669), Phạm Công Trứ cùng chúa Trịnh Căn đánh bại quan Mạc tại Cao Bằng, chặn đứng âm mưu của nhà Thanh định mượn cớ "Phù Mạc, diệt Lê" xâm lược nước ta.

Sau 40 năm phục vụ đất nước, năm Mậu Thân (1668) vua đã phong ông làm "Quốc Lão", được tham dự các việc cơ mật trong triều. Cũng thời gian này ông đã xin nghỉ hưu ba lần mới được chấp nhận. Khi về, ông được thăng Thái Bảo, chúa Trịnh đã tặng ông đôi câu đối thêu vào cờ:

Điền đỉnh nại, nhiếp âm dương, triều đình trụ thạch.
Hoàn quy mô, định hiệu lệnh, quốc gia đống lương.

Nghĩa là:

Nêm canh định vạc, điều hoà khí âm dương, làm cột đá cho triều đình.
Định ra các hiệu lệnh, hoàn thành được quy mô, là rường cột của Nhà nước.

Đến năm Quý Mùi (1673) triều đình lại mời ông ra làm Tể tướng, coi việc sáu bộ, tham tán việc cơ mật.

Ngày 28 tháng 10 năm ất Mão (1675) Phạm Công Trứ qua đời tại quê nhà, thọ 76 tuổi.  Triều đình cho xây dựng đền thờ ông, vua Lê thương tiếc phong tặng "Thái tể, thụy là Trung Cầu".

Cả cuộc đời, ông đã đóng góp công lao xây dựng triều đình, đất nước trong mọi lĩnh vực như chính trị, quân sự, văn học, sử học, pháp luật... Phạm Công Trứ đều có những cống hiến quan trọng, là rường cột của nước nhà. Công lao đó được Phan Huy Chú, trong "Lịch triều hiến chương loại chí" viết: "... Ra đương việc nước 19 năm (ông) đặt ra phép tắc, sửa soạn kỷ cương; đè nén những kẻ cậy thế, nhũng loạn; yêu chuộng người có phong cách tiết tháo... có đức tốt, có công lao sự nghiệp, là bậc hiền tể thứ nhất sau đời Trung Hưng..." hay như trong Gia phả họ Phạm có viết: "... ông là một nhà chính trị đại tài, lái hai con thuyền phong kiến trong lúc khó khăn...".

Ngày nay, hàng năm hai lần nhân dân địa phương cùng các con cháu trong dòng họ lại tế lễ, mở hội vào ngày 17 tháng 3 âm lịch (kỷ niệm ngày sinh) và ngày 28/10 (ngày mất) nhằm ôn lại truyền thống hào hùng của ông.


Tin liên quan

Đánh giá của bạn về chất lượng của dịch vụ công trực tuyến






Gửi đánh giá Xem kết quả
197 người đang online