31/07/2019 | lượt xem: 8 Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Hưng Yên tháng 7 và 7 tháng năm 2019 1. Nông nghiệp và thủy sản a) Nông nghiệp Trồng trọt Cây hàng năm: Đến ngày 20/6, toàn tỉnh cơ bản kết thúc thu hoạch lúa xuân. Sau khi thu hoạch lúa xuân, nông dân các địa phương khẩn trương, tập trung gieo cấy lúa mùa với tinh thần gặt đến đâu làm đất đến đó, không để tình trạng mạ chờ ruộng, ruộng chờ mạ, bảo đảm kế hoạch gieo cấy và kịp thời vụ. Theo báo cáo của các huyện, thành phố, đến ngày 15/7, toàn tỉnh đã gieo cấy được trên 31.000 ha, trong đó gieo thẳng trên 5.000 ha, hoàn thành kế hoạch đề ra. Một số huyện kết thúc gieo cấy sớm ngay từ đầu tháng Bẩy như: Khoái Châu, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ. Đây là các huyện có tập quán gieo cấy sớm để chuẩn bị cho sản xuất vụ đông. Bên cạnh việc gieo cấy lúa mùa, nông dân các địa phương trong tỉnh cũng tích cực gieo trồng cây rau màu hè thu, đến nay, diện tích trồng rau màu vụ hè thu đạt 4.095 ha, trong đó: ngô 467 ha, đậu đỗ các loại 144 ha, dược liệu 97 ha, hoa cây cảnh 509 ha, cây rau màu khác 2.878 ha. Cây lâu năm: Thời điểm này, cây nhãn đang được nhiều nhà vườn chăm sóc và chuẩn bị thu hoạch. Ngành chức năng cũng khuyến cáo nông dân các địa phương tiếp tục chăm sóc, theo dõi và phòng trừ kịp thời các đối tượng sâu bệnh hại trên cây ăn quả; bón thúc nuôi quả bằng các loại phân hữu cơ đã ngâm ủ, phân bón NPK tổng hợp và phân bón qua lá; không bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật trên diện tích nhãn chín sớm chuẩn bị cho thu hoạch để bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm nay, thời tiết không thuận lợi cho quá trình ra hoa, đậu quả đối với cây nhãn nên dự báo sản lượng nhãn sẽ thấp hơn năm trước. Chăn nuôi Công tác phòng, chống dịch: Để ngăn chặn dịch bệnh, đến nay, toàn tỉnh đã cấp phát hóa chất khử trùng tiêu độc, vôi bột và hỗ trợ tiền công phun hóa chất khử trùng tiêu độc được 66.705 lít hóa chất, 1.418 tấn vôi bột và 462,5 triệu đồng tiền công phun. Trong đó, tỉnh hỗ trợ 51.636 lít; cấp huyện 7.516 lít, 288 tấn vôi bột và 462,5 triều đồng tiền công phun; cấp xã 2.303 lít, 884 tấn vôi bột; người chăn nuôi 5.250 lít, 246 tấn vôi bột. Kết quả đã phun hóa chất khử trùng tiêu độc và rắc vôi bột đến nay được 66.205 lít hóa chất khử trùng, 1.418 tấn vôi bột tương ứng với trên 35,0 triệu lượt m2 chuồng trại chăn nuôi và môi trường (Trong đó: hóa chất khử trùng tiêu độc của tỉnh hỗ trợ phun được 25,8 triệu lượt m2; cấp huyện, xã hỗ trợ và người chăn nuôi tự thực hiện được trên 9,2 triệu lượt m2), cụ thể như sau: Hóa chất của tỉnh triển khai được 51.636 lít; hóa chất, vôi bột của huyện triển khai được 7.016 lít, 288 tấn; hóa chất, vôi bột của xã triển khai được 2.303 lít; 884 tấn; hóa chất, vôi bột của người chăn nuôi triển khai được 5.250 lít, 246 tấn. Từ ngày 01/02/2019 đến ngày 12/7/2019, Chi cục Thú y đã lấy 1.702 mẫu huyết thanh, bệnh phẩm của lợn ốm, chết gửi Trung tâm chẩn đoàn Thú y Trung ương để xét nghiệm. Kết quả có 1.256/1.702 mẫu huyết thanh, bệnh phẩm dương tính với vi rút Dịch tả lợn Châu Phi. Diễn biến tình hình dịch tả lợn Châu Phi: Từ ngày 01/2/2019 phát hiện dịch đến ngày 12/7/2019, toàn tỉnh đã có 151 xã, phường, thị trấn của 10 huyện, thị xã, thành phố công bố dịch, bao gồm: TP Hưng Yên (13/17 xã, phường); Yên Mỹ (17/17 xã, thị trấn); Ân Thi (21/21 xã, thị trấn); Kim Động (16/17 xã, thị trấn); Thị xã Mỹ Hào (13/13 xã, phường); Văn Giang (10/11 xã, thị trấn); Tiên Lữ (15/15 xã, thị trấn); Phù Cừ (14/14 xã, thị trấn); Văn Lâm (11/11 xã, thị trấn); Khoái Châu (21/25 xã, thị trấn). Tính đến hết ngày 12/7/2019, có 40 xã, phường của 8 huyện, thành phố, thị xã đã công bố hết dịch, đó là: TP. Hưng Yên (2 xã, phường: An Tảo, Phương Chiểu); Ân Thi (7 xã: Quang Vinh, Bắc Sơn, Xuân Trúc, Phù Ủng, Văn Nhuệ, Tân Phúc, Cẩm Ninh); Yên Mỹ (9 xã: Giai Phạm, Nghĩa Hiệp, Liêu Xá, Việt Cường, Trung Hưng, Tân Việt, Trung Hòa, Ngọc Long, Tân Lập; TX. Mỹ Hào (13 xã, phường: Minh Đức, Phùng Chí Kiên, Xuân Dục, Ngọc Lâm, Bạch Sam, Bần Yên Nhân, Cẩm Xá, Nhân Hòa, Hưng Long, Dị Sử, Hòa Phong, Dương Quang, Phan Đình Phùng); Kim Động (3 xã: Đức Hợp, Toàn Thắng, Vĩnh Xá); Khoái Châu (03 xã, TT): Ông Đình, Dân Tiến, TT. Khoái Châu; Văn Lâm (2 xã: Chỉ Đạo, Minh Hải); Phù Cừ 1 xã (Nhật Quang). Trong tuần (từ ngày 06/7- 12/7/2019), tiếp tục phát hiện lợn ốm, chết và tiến hành tiêu hủy theo quy định 3.376 con (169.573 kg) tại 134 hộ, 53 xã, của 09 huyện, thành phố, trong đó: TP. Hưng Yên tiêu hủy 165 con (10.678 kg) ở 11 hộ, 06 xã; huyện Yên Mỹ tiêu hủy 408 con (39.626 kg) ở 11 hộ, 02 xã; huyện Ân Thi tiêu hủy 259 con (18.532 kg) ở 25 hộ, 04 xã; huyện Kim Động tiêu hủy 25 con (4.031 kg) ở 02 hộ, 02 xã; huyện Văn Giang tiêu hủy 728 con (41.689 kg) ở 18 hộ, 08 xã; huyện Tiên Lữ tiêu hủy 133 con (4.174 kg) ở 10 hộ, 06 xã; huyện Văn Lâm tiêu hủy 104 con (6.989 kg) ở 16 hộ, 05 xã; huyện Phù Cừ tiêu hủy 174 con (13.576 kg) ở 15 hộ, 08 xã, TT; huyện Khoái Châu tiêu hủy 1.380 con (33.278 kg) ở 26 hộ, 12 xã. Từ ngày 01/2/2019 phát hiện dịch đến ngày 12/7/2019, các địa phương tổ chức tiêu hủy 178.660 con lợn (10.271.137 kg) tại 14.268 hộ, 766 thôn, 156 xã, phường, thị trấn của 10 huyện, thị xã, thành phố. 2. Sản xuất công nghiệp So với tháng trước, Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Bẩy tăng 1,74%, trong đó: công nghiệp khai khoáng (cát) giảm 9,94%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,74%; sản xuất và phân phối điện tăng 3,84%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,98%. Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng tăng so với tháng trước như: thức ăn cho gia cầm tăng 4,85%; quần áo các loại tăng 4,55%; thùng hộp bằng bìa cứng tăng 2,21%; sơn và vecni tan trong môi trường nước tăng 2,43%; sắt thép các loại tăng 5,50%;.... Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm giảm so với tháng trước như: thức ăn gia sú giảm 6,81%; sản phẩm bằng plastic giảm 4,65%; mạch điện tử tích hợp giảm 0,84%; dây điện dạng đơn, dạng cuộn giảm 5,71%; gạch bằng đất sét nung quy chuẩn 220x105x60mm giảm 2,37%;... So với tháng cùng kỳ năm 2018, Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Bẩy tăng 11,76%, trong đó: khai khoáng tăng 5,25%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,77%; sản xuất, phân phối điện, nước nóng và hơi nước tăng 8,57%; cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 15,78%. Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng tăng so với cùng kỳ năm 2018 như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền tăng 3,84%; thức ăn cho gia cầm tăng 24,69%; nước khoáng không có ga tăng 14,24%; quần áo các loại tăng 15,14%; thùng, hộp bằng giấy bằng bìa cứng tăng 12,91%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 13,21%; sản phẩm bằng plastic tăng 17,76%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm tăng 16,71%; sắt thép các loại tăng 13,07%; mạch điện tử tích hợp tăng 18,87%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 15,02%. Tính chung bẩy tháng năm 2019, Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,03% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng (cát) tăng 5,12%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,97%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,68%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 16,26%. Một số sản phẩm công nghiệp tăng so với cùng kỳ năm 2018 như: thức ăn cho gia cầm tăng 29,50%; rượu voka và rượu cô nhắc tăng 12,85%; nước khoáng không ga tăng 11,36%; quần áo các loại tăng 11,34%; cửa sổ, cửa ra vào bằng gỗ tăng 10,80%; thùng, hộp bằng bìa cứng tăng 12,69%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 11,21%; sản phẩm bằng plastic tăng 15,41%; gạch xây dựng bằng đất sét nung tăng 17,42%; sắt thép các loại tăng 9,23%; mạch điện tử tích hợp tăng 24,74%; động cơ đa năng một chiều/xoay chiều có công suất >37,5W tăng 15,38%; dây điện đơn dạng cuộn tăng 5,19%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 14,53%. Bên cạnh đó do tình hình dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn tỉnh phát triển và lây lan rộng nên nhu cầu tiêu thụ thức ăn gia súc bị giảm mạnh làm cho chỉ số sản xuất sản phẩm thức ăn gia súc bẩy tháng giảm 8,12% so với cùng kỳ năm trước. 3. Hoạt động đầu tư Vốn đầu tư ngân sách địa phương tháng Bẩy ước đạt 208.680 triệu đồng, tăng 14,67% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 94.350 triệu đồng, tăng 17,01%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 66.680 triệu đồng, tăng 36,75%; vốn ngân sách cấp xã đạt 47.650 triệu đồng, giảm 9,40%. Tính chung bẩy tháng, vốn đầu tư ngân sách địa phương ước đạt 1.259.168 triệu đồng, tăng 13,03% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 49,76% kế hoạch. Trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 606.569 triệu đồng, tăng 15,06% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 47,46% kế hoạch; vốn ngân sách cấp huyện 386.025 triệu đồng, tăng 23,64% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 51,14% kế hoạch; vốn ngân sách cấp xã 266.574 triệu đồng, giảm 2,91% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 53,58% kế hoạch năm. Hoạt động đầu tư nước ngoài: Tính đến 19/7/2019, toàn tỉnh có 448 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là 4.630.833 nghìn USD, trong đó từ đầu năm đến nay có 26 dự án đăng ký mới với số vốn đăng ký là 208.324 nghìn USD. Các quốc gia có số dự án, vốn đầu tư chủ yếu là: Thứ nhất là Nhật Bản có 161 dự án, vốn đăng ký là 2.974.093 nghìn USD, chiếm 64,22% tổng vốn đăng ký; thứ hai là Hàn Quốc có 134 dự án, vốn đăng ký 663.133 nghìn USD, chiếm 14,32% tổng vốn đăng ký; thứ ba là Trung Quốc có 92 dự án, vốn đăng ký 465.187 nghìn USD, chiếm 10,05% tổng số vốn đăng ký. 4. Thương mại, dịch vụ Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng Bẩy ước thực hiện đạt 3.156.428 triệu đồng, tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 11,84% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng Bẩy ước đạt 2.302.752 triệu đồng, tăng 0,72% so với tháng trước và tăng 11,98% so với tháng cùng kỳ năm trước. Một số nhóm ngành hàng tăng so với tháng trước như: lương thực, thực phẩm tăng 0,36%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 0,78%; vật liệu xây dựng tăng 0,74%; phương tiện đi lại tăng 2,54%; hàng hóa khác tăng 1,44%; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 1,44%. Bên cạnh những nhóm hàng giảm như: hàng may mặc giảm 0,38%, vật phẩm văn hóa giáo dục giảm 5,4%; đá quý, kim loại quý giảm 0,35%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng Bẩy ước đạt 155.120 triệu đồng giảm 1,08 % so với tháng trước và tăng 11,28% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: dịch vụ ăn uống 149.283 triệu đồng, giảm 1,08% so với tháng trước và tăng 11,71 % so với cùng kì năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú 5.837 triệu đồng giảm 0,87% so với tháng trước và tăng 1,55% so với cùng kì năm trước. Doanh thu dịch vụ du lịch và lữ hành tháng Bẩy ước đạt 830 triệu đồng, tăng 10,67% so với tháng trước và tăng 3,75% so với tháng cùng kỳ năm trước. Doanh thu ngành dịch vụ khác tháng Bẩy ước đạt 697.726 triệu đồng, giảm 0,89% so với tháng trước và tăng 11,51% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu dịch vụ kinh doanh bất động sản ước đạt 569.049 triệu đồng, giảm 0,92% so với tháng trước và tăng 11,53% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ 50.021 triệu đồng, giảm 3,42% so với tháng trước và tăng 13,68% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ giáo dục và đào tạo 8.514 triệu đồng, tăng 5,16% so với tháng trước và tăng 32,68% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 17.934 triệu đồng, tăng 1,34% so với tháng trước và tăng 12,19% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí 7.906 triệu đồng, tăng 2,74% so với tháng trước và tăng 7,07% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình 12.197 triệu đồng, tăng 0,64% so với tháng trước và tăng 1,78% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác 32.104 triệu đồng, giảm 0,45% so với tháng trước và tăng 7,93% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung bẩy tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ đạt 21.850.288 triệu đồng, tăng 11,99% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 63,71% kế hoạch. Trong đó: thương nghiệp 15.938.401 triệu đồng, tăng 12,15%; khách sạn, nhà hàng 1.090.708 triệu đồng, tăng 14,94%; doanh thu du lịch 4.334 triệu đồng, tăng 10,56%; doanh thu dịch vụ khác 4.817.455 triệu đồng, tăng 10,73%. 5. Chỉ số giá a) Chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Bẩy tăng nhẹ so với tháng trước, tăng 0,26%, đây là tháng thứ 2 liên tiếp có chỉ số giá tiêu dùng tăng (tháng Sáu tăng 0,21%). Trong tháng có 4/11 nhóm hàng hoá, dịch vụ có chỉ số giá tăng, bao gồm: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,10%, đây là nhóm hàng có chỉ số tăng cao nhất, nguyên nhân chủ yếu do giá thịt lợn tăng trong thời gian vừa qua (giá thịt mông sấn tăng 2,49%; thịt lợn nạc thăn tăng 2,17%; thịt lợn ba chỉ tăng 4,15%; sườn lợn các loại tăng 4,89%, giá các loại thịt chế biến tăng 2,96%, giá mỡ lợn tăng 3,51%); đồ uống và thuốc là tăng 0,16%; dịch vụ giao thông tăng 0,02%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,70%. Có 5/11 nhóm hàng hoá, dịch vụ có chỉ số giá giảm so với tháng trước, bao gồm: may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,2%; nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,73%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,17%; bưu chính viễn thông giảm 0,05%; văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,19%. Có 2/11 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá ổn định so với tháng trước, bao gồm: thuốc và dịch vụ y tế; dịch vụ giáo dục. So với tháng 12/2018, Chỉ số giá tiêu dùng tháng Bẩy tăng 0,68%. Trong đó: hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 0,18%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,33%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,36%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,96%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,89%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,17%; dịch vụ giao thông tăng 2,97%; bưu chính, viễn thông giảm 0,07%; văn hóa, thể thao, giải trí giảm 0,50%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,40%. Riêng nhóm giáo dục ổn định so với tháng 12/2018. So với tháng cùng kỳ năm 2018, Chỉ số giá tiêu dùng tháng Bẩy tăng 0,83%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,31%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,99%; hàng may mặc, mũ nón, giày, dép tăng 1,21%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,91%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,83%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,89%; dịch vụ giao thông giảm 0,73%; dịch vụ bưu chính, viễn thông giảm 0,47%; giáo dục tăng 1,80%; văn hóa, thể thao, giải trí giảm 0,22%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,42%. Bình quân chung bẩy tháng, Chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,25% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,48%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,85%; hàng may mặc, mũ nón, giày, dép tăng 0,87%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,13%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,46%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,31%; dịch vụ giao thông giảm 0,92%; bưu chính, viễn thông giảm 0,51%; dịch vụ giáo dục tăng 1,80%; dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí tăng 0,60%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,09%. b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá vàng tháng Bẩy tăng 5,10% so với tháng trước và ở mức giá bình quân 3.877.000 đồng/chỉ. Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,4% so với tháng trước, mức giá bình quân 23.314 đồng/USD. 6. Hoạt động vận tải và bưu chính a) Hoạt động vận tải hành khách Vận tải hành khách tháng Bẩy ước đạt 1.350 nghìn lượt người vận chuyển và 81.356 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 11,67% về lượt người vận chuyển và tăng 18,20% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 62.646 triệu đồng, tăng 17,88%. Tính chung bẩy tháng, vận tải hành khách ước đạt 9.015 nghìn lượt người vận chuyển và 551.662 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 11,09% về lượt người vận chuyển và tăng 13,11% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 423.123 triệu đồng, tăng 16,27%. b) Hoạt động vận tải hàng hóa Vận tải hàng hoá tháng Bẩy ước đạt 2.930 nghìn tấn vận chuyển và 104.878 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 15,36% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 17,18% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 231.835 triệu đồng, tăng 16,50%. Tính chung bẩy tháng, vận tải hàng hóa ước đạt 18.656 nghìn tấn vận chuyển và 669.880 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 12,23% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 12,78% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.509.206 triệu đồng, tăng 13,46%. 7. Hoạt động tài chính, ngân hàng a) Thu ngân sách nhà nước Thu ngân sách tháng Bẩy ước đạt 1.280.447 triệu đồng, tăng 42,09% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Thu nội địa 929.447 triệu đồng, tăng 42,34%; thuế xuất nhập khẩu 351.000 triệu đồng, tăng 41,43%. Một số khoản thu trong tháng dự tính như sau: Thu từ DNNN trung ương 19.973 triệu đồng, tăng 111,47%; thu từ DNNN địa phương 3.049 triệu đồng, tăng 31,67%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 172.314 triệu đồng, giảm 11,14%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 265.008 triệu đồng, tăng 15,40%; thu lệ phí trước bạ 30.068 triệu đồng, tăng 27,51%; thu thuế thu nhập cá nhân 73.589 triệu đồng, giảm 2,43%; các khoản thu về nhà đất 308.991 triệu đồng, tăng 321,08%. Tính chung bẩy tháng, thu ngân sách nhà nước ước đạt 7.989.000 triệu đồng, tăng 23,79% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 62,10% kế hoạch. Trong đó: Thu nội địa 5.750.000 triệu đồng, tăng 21,68% và đạt 60,12% kế hoạch; thuế xuất nhập khẩu 2.239.000 triệu đồng, tăng 29,58% và đạt 67,85% kế hoạch. Một số khoản thu nội địa như sau: Thu từ DNNN Trung ương 115.000 triệu đồng, tăng 26,19% và đạt 60,53% kế hoạch; thu từ DNNN địa phương 22.000 triệu đồng, tăng 26,0% và đạt 68,75% kế hoạch; thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1.029.000 triệu đồng, tăng 2,12% và đạt 50,20% kế hoạch; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 1.838.000 triệu đồng, tăng 22,40% và đạt 50,63% kế hoạch; thu lệ phí trước bạ 204.000 triệu đồng, tăng 25,10% và đạt 61,82% kế hoạch; thuế thu nhập cá nhân 520.000 triệu đồng, tăng 12,90% và đạt 62,65% kế hoạch; các khoản thu về nhà đất 1.650.000 triệu đồng, tăng 47,92% và đạt 93,38% kế hoạch. b) Chi ngân sách nhà nước Chi ngân sách nhà nước tháng Bẩy ước đạt 857.800 triệu đồng, tăng 20,70% so với cùng kỳ năm 2018.Trong đó: Chi đầu tư phát triển 331.800 triệu đồng, tăng 64,65%; chi thường xuyên 526.000 triệu đồng, tăng 3,30%. Tính chung bẩy tháng, chi ngân sách nhà nước ước đạt 5.571.400 triệu đồng, tăng 19,75% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 66,50% kế hoạch. Trong đó: Chi đầu tư phát triển 2.322.700 triệu đồng, tăng 41,03% và đạt 92,49% kế hoạch; chi thường xuyên 3.448.700 triệu đồng, tăng 8,70% và đạt 54,75% kế hoạch. Một số lĩnh vực chi thường xuyên như sau: Chi sự nghiệp kinh tế 295.100 triệu đồng, giảm 0,47%; chi giáo dục, đào tạo 1.190.600 triệu đồng, tăng 4,11%; chi sự nghiệp y tế 296.200 triệu đồng, giảm 11,93%; chi sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao 47.300 triệu đồng, giảm 6,75%; chi đảm bảo xã hội 404.100 triệu đồng, tăng 55,44%; chi quản lý hành chính 833.900 triệu đồng, tăng 9,25%. c) Hoạt động ngân hàng Tính đến 30/6/2019, tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng đạt 79.124.044 triệu đồng, tăng 8,50% so với thời điểm 31/12/2018. Trong đó: Nguồn vốn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 70.000.567 triệu đồng, tăng 9,21% và chiếm 88,47% tổng nguồn vốn. Tổng dư nợ đối với nền kinh tế đạt 59.062.279 triệu đồng, tăng 5,69% so với thời điểm 31/12/2018. Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn 41.441.674 triệu đồng, tăng 4,83%; dư nợ cho vay trung và dài hạn 17.620.605 triệu đồng, tăng 7,77%. Dư nợ cho vay bằng nội tệ 56.571.819 triệu đồng, tăng 5,71%; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 2.490.460 triệu đồng, tăng 5,33%. Về chất lượng tín dụng: Nợ xấu (nhóm 3,4,5) là 915.677 triệu đồng (chiếm 1,55% tổng dư nợ), giảm 0,58% so với thời điểm 31/12/2018. 8. Một số hoạt động văn hoá, xã hội a) Thực hiện chính sách xã hội đối với thương binh, liệt sỹ Nhân dịp kỷ niệm 72 năm ngày Thương binh, Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2019), Chủ tịch nước tặng quà cho đối tượng có công với cách mạng theo Quyết định số 1062/QĐ-CTN ngày 26/6/2019. Tỉnh Hưng Yên đã thăm, tặng quà các đối tượng, gia đình chính sách theo Quyết định số 1196/QĐ-UBND ngày 22/5/2019 của UBND tỉnh, tổng kinh phí thăm, tặng quà là 26.556,1 triệu đồng, trong đó: ngân sách tỉnh 24.790,7 triệu đồng, nguồn xã hội hoá 1.765,4 triệu đồng. Cụ thể như sau: Thăm, tặng quà 21.619 gia đình liệt sĩ (tính theo số liệt sĩ); 6.924 thương binh; 4.377 bệnh binh; 05 anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động trong kháng chiến; 1.872 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; 365 người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đầy. Mỗi suất quà trị giá 700 nghìn đồng (gồm 400 nghìn đồng tiền mặt và 01 túi quà trị giá 300 nghìn đồng); ngoài ra, doanh nghiệp hỗ trợ thêm quà tặng trị giá 50 nghìn đồng vào mỗi túi quà. Thăm, tặng quà 05 Trung tâm điều dưỡng thương bệnh binh trong tỉnh và ngoài tỉnh, gồm: Trung tâm Điều dưỡng, chăm sóc người có công tỉnh Hưng Yên; Trung tâm Điều dưỡng Tâm thần kinh tỉnh Hưng Yên; Trung tâm Điều dưỡng thương, bệnh binh Lạng Giang - Bắc Giang; Trung tâm Điều dưỡng thương, bệnh binh Thuận Thành - Bắc Ninh; Trung tâm Điều dưỡng thương, bệnh binh Nho Quan - Ninh Bình, mỗi trung tâm 01 suất quà trị giá 3.500 nghìn đồng (gồm 3.000 nghìn đồng tiền mặt và 01 túi quà trị giá 500 nghìn đồng). Tặng quà 24 thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ quê ở Hưng Yên đang điều dưỡng tại 05 trung tâm nói trên, mỗi đối tượng 01 suất quà trị giá 700 nghìn đồng (gồm 400 nghìn đồng tiền mặt và 01 túi quà trị giá 300 nghìn đồng); ngoài ra, doanh nghiệp hỗ trợ thêm quà tặng trị giá 50 nghìn đồng vào mỗi túi quà. Thăm, tặng quà 22 gia đình người có công, mỗi gia đình 01 suất quà trị giá 1.500 nghìn đồng (gồm 1.000 nghìn đồng tiền mặt và 01 túi quà trị giá 500 nghìn đồng); ngoài ra, doanh nghiệp hỗ trợ thêm quà tặng trị giá 50 nghìn đồng vào mỗi túi quà. b) Hoạt động văn hóa, thể thao Trong tháng qua, các vận động viên thể thao của tỉnh đã tham dự các giải thể thao thành tích cao toàn quốc như: Giải vô địch trẻ và thiếu niên võ cổ truyền toàn quốc lần thứ XX năm 2019, kết quả giành 1 HCV và 4 HCĐ; đoàn Taekwondo Hưng Yên tham gia giải vô địch trẻ toàn quốc năm 2019 tổ chức tại tỉnh Lào Cai từ ngày 7/7-17/7/2019, kết quả giành được 2 HCV, 3 HCB, 8 HCĐ; tham gia Giải Pencak silat trẻ toàn quốc năm 2019 tổ chức tại tỉnh Tuyên Quang từ ngày 10/7-15/7/2019, kết quả giành 9 huy chương các loại, trong đó: 3 HCV, 2 HCB, 4 HCĐ và giành giải Ba toàn đoàn. Tại Giải vô địch trẻ đua thuyền Đông Nam Á 2019 diễn ra tại Thái Lan từ ngày 20 - 24/6/2019 với sự tham gia của hơn 100 VĐV đến từ 7 quốc gia, Hưng Yên có 2 VĐV tham gia thi đấu và xuất sắc giành được 6 huy chương, trong đó có 3 HCV, 2 HCB và 1 HCĐ. Ngoài tham gia các giải thể thao thành tích cao, hoạt động thể thao quần chúng trên địa bàn tỉnh cũng diễn ra tương đối sôi nổi, như tổ chức Giải Cầu lông công nhân, viên chức, lao động tỉnh Hưng Yên năm 2019, Hội thao chào mừng ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21/6,… c) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ Từ ngày 16/6/2019 đến ngày 15/7/2019, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã phát hiện 10 vụ vi phạm môi trường, ra quyết định xử lý 8 vụ với số tiền xử phạt hành chính là 435 triệu đồng, 2 vụ bàn giao cho cơ quan khác. Nguyên nhân vi phạm chủ yếu của các vụ việc là xả nước thải, khí thải gây ô nhiễm môi trường, vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép. Từ ngày 16/6/2019 đến ngày 15/7/2019, trên địa bàn tỉnh xảy ra 1 vụ cháy nhà dân thuộc huyện Kim Động, vụ cháy làm 1 người bị thương nhẹ, thiệt hại tài sản 80 triệu đồng. Nguyên nhân vụ cháy đang được các cơ quan chức năng điều tra làm rõ. e) An toàn giao thông Theo số liệu của Ban An toàn giao thông tỉnh Hưng Yên, từ ngày 16/6/2019 đến 15/7/2019, toàn tỉnh xảy ra 9 vụ tai nạn giao thông, đều là tai nạn đường bộ, làm chết 8 người, làm bị thương 3 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn giảm 2 vụ, giảm 18,18%; số người chết giảm 1 người, giảm 11,11%; số người bị thương giảm 4 người, giảm 57,14%. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/7/2019, toàn tỉnh đã xảy ra 90 vụ tai nạn giao thông, làm chết 74 người, làm bị thương 51 người. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ tai nạn giảm 7 vụ, giảm 7,22%; số người chết tăng 8 người, tăng 12,12%; số người bị thương giảm 22 người, giảm 30,14%./. Nguồn: thongkehungyen.gov.vn